1. Ông lão nghèo đan rổ rá kiếm sống
Ông lão ăn mày! Người ta gọi ông như thế vì ông nghèo và không nhà cửa. Thực ra, ông chưa hề chìa tay xin ai một đồng xu. Có lẽ ông chưa ngoài 70 tuổi nhưng mưa gió, công việc khó nhọc, sự đói rét đã làm ông già hơn ngày tháng. Lưng ông hơi còng, tóc ông mới bạc quá nửa, nhưng đôi má hóp, chân tay khô đét và đen xạm. Riêng mắt ông còn tinh sáng.
Ở trường về, từ đằng xa, tôi đã thấy ông ngồi co ro trước cửa nhà tôi. Nghe tiếng gót giày tôi đi trên thềm gạch, ông ngẩng lên chào, giọng nhỏ và run:
– Bẩm ông… Chỗ này nắng, cháu ngồi nhờ ông một lúc cho ấm.
– Được, cụ cứ ngồi.
– Cháu sẽ quét cẩn thận, không dám để rác bẩn đâu.
– Thế thì hay lắm.
Rồi ông lại cắm cúi xuống chiếc rổ tre đang đan dở.
Tôi vào nhà ăn cơm. Ông đi lúc nào, tôi không để ý, chắc ông đi lúc mặt trời lên cao đã xế ánh nắng ra khỏi cửa nhà tôi. Chỗ ông ngồi đan, đố ai tìm thấy một nút lạt, một tơ tre, một sợi mây nhỏ.
Hôm ấy là chủ nhật. Giời hoe nắng từ sáng sớm. Tuy vậy, ngồi trong nhà tôi mặc áo len còn thấy lạnh. Lúc ra tựa cửa, tôi đã thấy ông lão đang ngồi đan ở chỗ cũ. Tôi gợi chuyện:
– Cụ dậy sớm nhỉ?
Ông ngẩng lên:
– Bẩm ông, cháu lại nhờ ông buổi nữa…
– Vâng, nào tôi có thiệt gì!
– Ông xem! Hôm qua, cháu có để bẩn tí nào đâu. Cháu nghèo đói thật, nhưng không muốn để ai chê trách mình.
– Cụ nghĩ thế phải lắm.
Ông cụ vừa rút chặt sợi mây, vừa thủng thẳng:
– Cháu xa làng từ khi còn bé. Cháu đã đi ở, kéo xe, làm bếp, bán hàng rong, nhưng không bao giờ được mát mặt [1]. Bây giờ có tuổi, không làm nổi việc nặng nhọc, cháu làm việc nhẹ.
– Đan thế này, mỗi ngày cụ kiếm được bao nhiêu?
– Dăm bảy xu, có khi một hai xu.
– Đủ ăn sao được?
– Cháu già rồi, ăn hết mấy, vả lại, sức chỉ có thế thì làm thế nào?
2. Tuy nghèo nhưng nhân cách lớn
Tôi đang lấy làm lạ về lời nói của ông thì nghe đằng xa có tiếng rên rỉ não nuột. Tiếng ấy to dần. Đó là tiếng kêu xin thê thảm của một người mù, già, gầy đen. Anh ta lê qua trước mặt chúng tôi, tay trái chống xuống đất, tay phải cầm mảnh rá mất cạp. Ai thấy anh ta mà không động lòng thương, tôi chịu là người can đảm.
Thấy tôi cho anh ta tiền, ông lão cũng sờ vào vành quần, lấy ra một hào, ném vào rá người ăn mày. Ông ngậm ngùi bảo tôi:
– Sao thiên hạ lắm người khổ thế, ông nhỉ?
Tôi còn biết trả lời ông ra sao. Tôi gọi thằng cháu đem rổ rá cũ ra để ông cạp lại hộ. Ông làm cẩn thận và đẹp lắm. Những nút mây nhỏ gần sát nhau, đầu nút lẩn vào bên trong.
Tôi đưa ông một hào. Ông bảo:
– Cháu không có xu giả lại.
– Biếu cụ cả đấy.
– Ông cho, cháu xin vâng, chứ ông giả tiền công thì đắt quá, cháu không dám nhận.
3. Ông lão ăn mày qua đời
Sau đó hai hôm, giời đang ấm bỗng nổi rét. Lá vàng lác đác rụng. Tầng mây nặng trĩu và xám ngắt, cảnh vật âm u. Tôi kéo cổ áo lên khỏi gáy nhưng vẫn run hoài. Hai tay trong túi áo còn thấy buốt. Một người đi bên cạnh tôi, hai hàm răng chạm nhau lập cập.
Trước cửa trường học, học trò đứng tụ lại khác mọi hôm. Tôi hỏi họ:
– Chuyện gì thế?
– Thưa thầy, trong hiên trường có người chết. Có lẽ bệnh dịch. Mời thầy xuống xem.
Tôi hồi hộp nghĩ: “Hay là ông lão…”.
Đến nơi, nhìn vào trong hiên, trước cửa lớp tư, tôi thấy một chiếc chiếu cuốn tròn, gồ lên. Thầy giáo cùng trường bảo tôi:
– Ông cụ này vẫn ngủ ở đây. Ông cụ sạch sẽ và cẩn thận lắm, sáng nào dậy cũng quét dọn tinh tươm.
– Có phải ông cụ vẫn đan rổ rá?
– Phải đấy. Ông cụ khái [2] đáo để! Tuy già yếu, nghèo đói, ông cụ vẫn kiếm lấy ăn, không thèm đi xin.
– Ông còn làm phúc cho kẻ nghèo hơn!
Một tiếng còi ô tô. Chúng tôi giãn sang hai bên đường. Chiếc xe đen, bóng loáng, lịch sự từ từ tiến đến, ông y sĩ bước xuống, vào khám tử thi.
Xem xong, ông bảo chúng tôi:
– Người ăn mày này chết vì rét thôi. Các ông cho học trò nghỉ buổi sáng. Chiều có thể học được.
Ba tiếng trống vang lên. Học trò lớp trên vào lớp. Ngoài đường, vòm trời ảm đạm, cây cối xờ xạc, ủ rũ. Một chiếc lá vàng khô rời cành, lặng lẽ rơi xuốhg đất. Hình ảnh của một đời người đã qua.
4. Tấm lòng cao cả của ông lão ăn mày
Buổi chiều hôm sau, khi tan học, tôi gặp một cậu bé độ sáu, bảy tuổi gầy gò, bẩn thỉu, bận một chiếc áo cánh nâu rách dài chấm đầu gốì. Cậu bé vừa đi vừa khóc, tay chùi nước mắt rỏ giọt hai bên má. Rồi cậu bé vào hiên trường, ngồi bưng mặt khóc ở đúng chỗ ông lão vừa mất đêm kia.
Tôi ngạc nhiên. Chắc thằng bé là con cháu người đã khuất. Tôi hỏi:
– Sao cháu ngồi khóc ở đây?
– Bố mẹ cháu chết cả. Cháu đi ăn mày, vẫn được ông cụ ở đây cho ăn, cho ngủ. Cháu bị lạc mất mấy hôm, bây giờ về không thấy ông đâu…
Cậu bé thổn thức mãi mới nói được mấy câu. Hai má đẫm lệ. Tôi muốn bảo nó: “Ông cụ chết rồi” nhưng sự thương cảm làm tôi nghẹn lời.
Chú thích trong câu chuyện
- Không bao giờ được mát mặt: ý nói không thoát khỏi nghèo khổ.
- Khái (khí khái, khái tính): không muốn nhờ vả ai, phiền ai.
Thử thách trong truyện Ông lão ăn mày
- Tìm những chi tiết trong truyện cho thấy:
– Ông lão rất khái tính, tự trọng.
– Ông lão rất giàu lòng nhân hậu.
- Chi tiết nào trong câu chuyện làm các con cảm động?